Tìm Thấy Nhau Trong Nỗi Cô Đơn

Cô đứng chết lặng trước bảng thông báo trong dãy hành lang của nhà hát, đôi vai nhỏ gầy buông thõng bất động, dường như đã đứng như vậy từ rất lâu rồi.
Trên bảng danh sách dài ngoằng đó không có tên cô.
Vậy là đúng như dự đoán, cô đã trượt.
Cô mím chặt môi tự nhủ với mình rằng:
“Chẳng qua chỉ là một vở kịch thôi mà.”
À không, chẳng qua chỉ là một vở kịch mà cô đang rất muốn đóng mới đúng. Vở kịch đó có một vai diễn nhỏ – một bông hoa trong đám hoa ăn thịt người giữa khu vườn ma quái.
Nếu vào một năm trước, có lẽ cô sẽ chẳng bao giờ khao khát được thủ một vai nhỏ đến mức chẳng ai có thể nhận ra như thế. Nhưng cô đã thất nghiệp từ rất lâu rồi. Có lẽ khoảng ba tháng, hay bốn tháng gì đó? và cô cũng chẳng còn nhớ rõ trong quãng thời gian đằng đẵng này đã có biết bao nhiêu lần giống như hôm nay, cô bị đánh trượt.
Sáng sớm hôm nay khi bước lên sân khấu của nhà hát này, cô cố gắng múa thử một đoạn. Vì chưa từng nhìn thấy hoa ăn thịt người bao giờ, thế nên cô đành nhe răng giơ vuốt, cố gắng bày ra bộ dạng ăn tươi nuốt sống một cách đáng sợ. Vậy nhưng khi nhảy được chừng nửa đoạn, cô liếc thấy vị phó đạo diễn phụ trách tuyến chọn nhân vật đang ngồi phía dưới đột nhiên há to miệng về phía cô.

tim_thay_nhau_trong_noi_co_don

Cô tưởng rằng ông ấy định hô dừng lại. Nhưng hóa ra ông ấy đang ngáp.
Khoảnh khắc đó, cô biết rằng mình đã không còn cơ hội, nhưng cô vẫn ôm một tia hy vọng và quay trở lại.
Chân cô như cắm rễ xuống đất, vẫn đứng câm lặng trước bảng thông báo, tlần tlần nhìn lên bản danh sách vô tình kia một cách cố chấp, như tưởng rằng chỉ cần chớp mắt thêm vài lần nữa, biết đâu phép màu sẽ xuất hiện, và rồi đột nhiên cô sẽ phát hiện ra tên của mình vẫn nằm trên đó.
Thế nhưng, hôm nay chẳng có phép màu nào xuất hiện.
Cuối cùng, phải rất lâu sau, cô cũng khẽ động đậy, nhấc một bước chân, rồi bước thứ hai, tần ngần không nỡ rời khỏi bảng thông báo.
Đúng lúc này, một cơn gió từ đâu ùa tới, khiến một góc của bản danh sách bay cuộn lên, lộ ra trang thứ hai nằm ở phía sau. Và cô không nhìn thấy.
Mãi cho đến rất nhiều năm sau, cô mới biết rằng tên của mình đã nằm trên đó.
Khi đẩy cánh cửa kính to bản của nhà hát và lê bước ra ngoài, một cơn gió lạnh từ đâu thốc tới, cô liền đội vội chiếc mũ len, bật chiếc ô trên tay, cất bước lẻ loi giữa màn mưa mù dày đặc.
Dáng người cô nhỏ nhắn, tay phải đeo một chiếc vòng được xâu chuỗi bằng những viên ngọc thạch xanh, làm nổi bật lên nước da trắng nõn mềm mại. Đôi mắt tròn đen láy treo dưới chiếc mũ len luôn ánh lên một vẻ mơ màng khó tả. Đôi mắt đó như đang hướng ánh nhìn vô định về một nơi nào đó không tên.
Sắc mặt cô hơi chút trắng bệch, những sợi tóc lơ thơ rủ xuống trước trán, trên vành chiếc mũ len lấp ló một vài lỗ thủng.
Cô mặc độc trên người một chiếc váy lông cừu mỏng manh. Nơi chân váy còn sứt bung cả chỉ, đôi bốt ngắn màu đỏ đậm đã mòn vẹt, và chiếc túi đeo to bản như túi bưu tá cũng đã cũ sờn.
24 tuổi, cô đang ở độ thanh xuân phơi phới, những cô gái ở độ tuổi này đều yêu thích làm đẹp, còn cô nhìn thoáng qua trông lại có vẻ luộm thuộm bất cần. Nhưng sự luộm thuộm của cô không khiến cho người đối diện cảm thấy ghét bỏ, mà tựa như một chú chim non với bộ lông phủ màu trắng tuyết, chẳng may rơi vào dòng nước bẩn, khiến cho bầu má ngây thơ của cô toát lên một cảm giác phiêu linh không nơi nương tựa.
2.
Cô cúi gằm mặt như một bông tuylip đã khô héo, thả bước giữa dãy cầu thang của nhà trọ. Hai bên cầu thang cũ bẩn lác đác vài túi rác, bát hương chỗ chiếu nghỉ vẫn cắm dăm que nhang đang cháy dở nghi ngút, tàn hương bay lơ lửng trong không trung rồi đậu lên mũi đôi bốt đỏ của cô.
Cô chẳng buồn để ý.
Cô đi lên tầng hai, mở cánh cửa vẫn dính quyện những vết bẩn bóng như dầu trên ô kính và bước vào.
Dãy hành lang buổi chiều tà nồng nặc mùi mồ hôi chua, vài anh chàng tây đen đang ngồi xổm ở đó, nhe hàm răng trắng bóng cười với cô.
Cô không nhìn thấy.
Lách người qua phía sau họ, cô móc ra một chiếc chìa khoá, rồi đi về phía căn phòng cuối cùng. Khi đến gần hơn một chút, cô thấy chiếc vali bé nhỏ của mình đang nằm chơ vơ phía bên ngoài cánh cửa.
Cô vội vàng bước đến, ngồi sụp xuống sàn rồi mở vali ra, lần giở đống đồ đạc lổn nhổn được nhét đầy trong đó. Cô lục xuống tận dưới đáy, nhưng vẫn không thấy thứ mà cô muốn tìm. Lúc này, một cái bóng bỗng hiện ra sau lưng cô.
Giọng phụ nữ thô khàn vang lên:
“Tôi đã giao hẹn trước với cô rồi nhé, nếu hôm nay không trả đủ tiền thì cút.”
Cô quay lại và ngẩng đầu lên, trông thấy khuôn mặt to bè với nước da ánh lên màu vàng nến của bà chủ nhà.
Cô toan mở miệng nói, nhưng cặp môi phía trên lác đác vài sợi ria của bà ta đã cướp lời:
“Đừng có tỏ ra cái vẻ đáng thương như vậy nữa đi!”
Cô đứng dậy vội vàng nói:
“Nhưng trong phòng vẫn còn đồ của cháu.”
Cô vừa nói vừa nắm chặt lấy tay nắm cửa, định nhét chìa khoá để mở vào, nhưng bàn tay ngấn mỡ của bà chủ nhà đã kịp vung ra cướp lấy chiếc chìa khoá trên tay cô, rồi trợn mắt hằm hè:
“Đồ của cô ở đây hết rồi!”
“Không, cháu xin cô, để cháu vào trong xem đã.”
Tay cô vẫn bám chặt tay nắm cửa không buông.
Bà ta liếc xéo cô một cái, bĩu môi rõ dài rồi lấy chìa khoá tự tay mở cửa, sỗ sàng nói:
“Tôi chả thấy có thứ gì đáng giá trên người cô cả!”
Cửa vừa mở, cô lập tức chạy vào rồi đóng sầm lại, bên trong căn phòng tối đen như mực. Cô bật chiếc bóng đèn mờ vàng trên trần nhà.
Đằng sau cánh cửa, chiếc mắc áo vốn dùng để vắt khăn mặt đang treo một bức tranh sơn dầu sao chép dài 43 phân, rộng 30 phân, đó là bức Đêm đầy sao của Van Gogh.
“Thứ này là của mình.” Cô khẽ nói.
3.
Mưa đã ngưng, cô vẫn kẹp chặt bức Đêm đầy sao dưới cánh tay, kéo chiếc vali màu hồng phấn băng qua đường, rồi đi vào một con ngõ dài, nơi cách đó khoảng vài bước chân, khung cửa kính của tiệm cà phê Starbucks hắt ra thứ ánh sáng vàng dịu trông thật ấm áp.
Cô đẩy cửa bước vào, mùi cà phê thơm nồng lan đến mũi cô, tất cả chỗ ngồi trong tiệm đều đã có người. Cô đi thẳng đến chỗ giá sách, với lấy một tờ báo, lật đến mục Chòm sao hôm nay rồi lẩm nhẩm đọc.
Hôm nay mặt trăng tiến vào cung thứ hai,
Bạn sẽ bỗng trở nên đầy cảm xúc,
Đừng để sự âu sầu đa cảm dắt mũi mình,
Rốt cuộc bạn đang muốn theo đuổi điều gì,
Hễ gặp chuyện là là nghĩ ngay đến những điều tồi tệ chính là căn bệnh cố hữu của Song Ngư.
Lúc này, cô vô tình nhìn thấy một dòng quảng cáo bên cạnh mục Chòm sao hôm nay.
Cô đọc mẩu quảng cáo đó, lén xé ra rồi nhét vội vào túi chiếc váy lông cừu đang mặc trên người.
Sau đó, cô đặt tờ báo về chỗ cũ.
Khi đi qua dãy tủ bánh ngọt sáng rực đèn ờ quầy thu ngân, cô nuốt nước bọt thèm thuồng, bước chân cũng thả chậm lại.
Cô móc một tờ 10 đồng mua hai chiếc bánh bao ngọt ở hàng bánh bao, cẩn thận nhét 7 đồng 5 hào thối lại vào chiếc ví nilon bạc màu in chằng chịt những hình hoa anh túc. Sau đó cô ngồi trên dãy ghế đá trong công viên, cặm cụi ăn bánh.
Vừa nhai bánh bao, cô vừa móc từ túi váy ra mẩu giấy vừa xé trên góc báo.
Cô đưa tay gạt mấy sợi tóc đang rủ dài trên trán che khuất tầm mắt, rồi đọc dòng quảng cáo đó một lượt:
Quán Bar cao cấp đang cần tuyển gấp vũ công múa cột,
Body gợi cảm,
Không cần kinh nghiệm,
Quán sẽ cung cấp khóa dạy múa riêng
Công việc tự do,
Thu nhập hấp dẫn.
Từ rất lâu trước, cô từng đọc qua một cuốn sách về các cung hoàng đạo, cuốn sách đó nói rằng, những cô nàng Song Ngư đa sầu đa cảm và thường suy nghĩ bi quan sẽ là những cô gái gọi tuyệt vời và là những vũ nữ thoát y xuất sắc.
Nếu như tin điều đó sớm hơn, cô đã chẳng phải mất nhiều thời gian đến vậy. Con đường cô đi chẳng phải sẽ bớt gập ghềnh hơn hay sao? Tại sao lại cứ đâm đầu theo đuổi mơ ước làm diễn viên múa? Từ sau khi đoàn vũ đạo vô danh mà cô làm việc giải tán từ một năm trước, cô vẫn chưa nhận được bất kỳ vai diễn nào. Cơ hội không đến với cô, có lẽ, cô hoàn toàn chẳng có những tố chất mà nghề múa cần.
Thế nhưng, múa cột thì ai múa mà chẳng được chứ?
Đến nay, cô đã lâm vào bước đường cùng. Bảy đồng rưỡi đang nằm trong túi cô là khoản tiền duy nhất còn sót lại. Liệu ai sẽ chửi rằng cô không biết tlần trọng và giữ gìn bản thân kia chứ?
Nếu một ngày nào đó anh trở về, nhìn thấy đứa con gái mặt trát đầy son phấn, đang ôm cột lắc múa điên cuồng mua vui cho khách trên dãy bục dài nhấp nhoáng ánh đèn neon kia chính là cô, anh hẳn sẽ vội vàng cởi phăng chiếc áo khoác đang mặc và chạy đến bao bọc lấy cô.
“Anh ơi, em nhục lắm! Anh có thể tha thứ cho em không?”
“Đừng có ngốc nữa, em chẳng làm gì sai cả!”
“Anh, em mệt, thực sự em mệt lắm!”
Anh sẽ cứu cô ra khỏi chốn quái quỷ đó. Và hai người sẽ lại rau cháo nuôi nhau, cùng sống những tháng ngày yên ổn.
Cô lại trở về với sự sạch sẽ và thuần khiết.
Trong trí tưởng tượng của cô, anh sẽ luôn thứ tha cho những lỗi lầm của cô.
Thật vớ vẩn! Rốt cuộc cô đang nghĩ linh tinh gì vậy chứ!
Cô nuốt nốt mẩu bánh bao cuối cùng, lấy ngón tay gạt nốt những mảnh vụn còn sót lại trên môi, cắn răng gấp nhỏ mẩu giấy trên tay lại, rồi nhét vào chiếc ví hoa anh túc.
Sau đó cô đứng dậy, chầm chậm kéo vali về hướng bến xe buýt phía ngoài công viên.
4.
Sau khi xuống xe buýt, cô đứng chờ một lúc ở cạnh bến xe. Những vì sao buổi hoàng hôn bắt đầu le lói trên bầu trời, cô mệt mỏi bước qua ba con ngõ, rồi đi xuyên qua một con đường nhỏ.
Khi ngang qua một giáo đường, một người phụ nữ phát cho cô một tờ rơi. Cô đưa mắt liếc qua hai hàng chữ lớn trên đó.
Chúa Giê-su là đấng dẫn dắt của tôi,
Chắc chắn Người sẽ không để tôi bị thiếu thốn.
Cô tiện tay nhét tờ rơi vào trong túi, bước nhanh qua con ngõ nhỏ rồi đi đến một tòa nhà lớn với những tấm biến quảng cáo gắn đèn neon lấp lánh đủ màu sắc.
Bên ngoài tòa nhà đó có một chiếc cột quảng cáo hình chữ nhật, phía trên viết dòng chữ “Quán Bi-a Tâm Tâm”.
Cô chật vật kéo chiếc vali xuống dãy cầu thang nhỏ hẹp dẫn xuống tầng hầm. Có hai người đàn ông đi lên, cô phải lách người để họ đi qua.
Đi xuống tầng hầm, cô đẩy cánh cửa kính của quán bi-a và bước vào.
Đại đa số các dãy bàn bi-a đều đã có người chơi, cô lách qua giữa hai dãy bàn, liếc mắt thấy anh chàng ở phía bên trái chọc một gậy đưa bóng chui tọt vào lỗ.
Cô đi về phía quầy thu ngân. Cô gái đang đứng luôn chân luôn tay trong quầy trông thấy cô, ngạc nhiên nói:
“Tóc cậu dài ra nhiều rồi đấy nhỉ.”
“Hey, Tiểu Hồng!”
Cô mệt mỏi buông câu chào.
Trên cổ tay cô gái có một hình xăm hoa hồng, thế nên mọi người đều gọi cô là Tiểu Hồng, tuổi của hai đứa cũng xấp xỉ nhau.
Cô tự mình lôi vali vào trong quầy, quẳng sang một bên, sau đó với tay lấy một chiếc cốc giấy rồi rót nước, uống ừng ực hết ba cốc liền một lúc.
Tiểu Hồng nước da ngăm đen, thân hình nhỏ thó làm ai mới đầu nghía qua cũng tưởng là đàn ông.
“Cậu vừa đi du lịch về đấy à?” Tiểu Hồng hỏi.
“Hả? Không. Tối nay tớ có thể ngủ lại đây không?”
Cô ngồi phịch xuống chiếc ghế giả da xanh phía góc quầy thu ngân, “Tớ vừa cãi nhau với anh tớ! Ông ấy à, suốt ngày quản rồi bắt tớ phải mấy giờ mấy giờ về nhà! Lần này tớ dứt khoát không về nữa đâu!”
Cô mệt mỏi vô cùng, nằm bò trên quầy thu ngân, vùi mặt vào vòng tay định ngủ một giấc.
“Có ông nào đó gọi điện tìm cậu nhiều lần đấy. Tớ bảo rằng cậu không còn làm ở đây nữa. Ông ta hỏi là có thể tìm cậu ở đâu, tớ liền bảo không biết. Mà đúng là tớ cũng chẳng biết thật ấy chứ! Lúc đó chẳng phải cậu nói rằng định đi làm diễn viên múa kia mà?”
“Đúng rồi! Tớ đi diễn khắp nơi, bận ơi là bận!”
Cô không ngẩng đầu lên, trả lời một cách lười biếng, “Ông ta có tự giới thiệu mình là ai không?”
“Ông ta bảo là người ở bên văn phòng luật sư, sau đó lại hỏi tớ có số điện thoại của cậu không. Thế là tớ lại cho quách số điện thoại thằng người yêu cũ của tớ, thằng khốn nạn ấy ngày trước suốt ngày giở trò lăng nhăng sau lưng tớ!”
Cô nằm dài trên quầy thu ngân, miệng bật cười.
Tiểu Hồng mở chiếc ngăn kéo nhét đầy những thứ linh tinh rồi lục tìm rất lâu, cuối cùng tìm thấy một mẩu giấy nhăn nhúm.
“Ông ta để lại số điện thoại cho cậu này, dặn rằng cậu nhất định phải gọi cho ông ta. Cậu quen luật sư à?”
Cô đang rất buồn ngủ, đầu gác trên một cánh tay thẫn thờ, không buồn để ý đến mẩu giấy kia.
Rất lâu sau do tính tò mò thúc giục, cuối cùng cô cũng ngẩng mặt lên, chống một tay lên đầu rồi đưa mắt nhìn mẩu giấy bé tẹo đó, phía trên loằng ngoằng viết một cái tên và một dãy số điện thoại lạ hoắc.
“Bây giờ mấy giờ rồi nhỉ?”Cô hỏi Tiểu Hồng.
Tiểu Hồng nhìn đồng hồ: “8 giờ rồi đấy.”
“Văn phòng luật sư bây giờ đã tan làm chưa nhỉ?”
“Tớ có làm luật sư đâu mà biết cơ chứ!”
Cô dụi mắt, đưa tay với lấy chiếc điện thoại bàn trên mặt quầy xuống, rồi nhấc ống nghe lên, uể oải nhấn từng con số.
Chuông điện thoại kêu một hồi, phía đầu dây bên kia vang đến một giọng đàn ông.
“Tôi muốn tìm Luật sư Đới Đức Lễ.”
“Tôi đây. Xin hỏi cô là ai?”
“Tôi là Lộ Hỷ Hỷ, ông từng tìm tôi có phải không?”
“Lộ Hỷ Hỷ? Cô đợi một lát…”
Điện thoại vọng lại tiếng sột soạt, dường như ông ta đang mở đống hồ sơ hoặc tài liệu gì đó.
Cô cầm trên tay ống nghe, ngoác miệng ngáp một cái rõ dài.
“Cô có đúng là Lộ Hỷ Hỷ không?” Ông ta lại nói.
“Chính là tôi đây, ông tìm tôi có chuyện gì?”
“Có liên quan đến bà Ất Minh Phương. Ngày mai cô có thể sắp xếp thời gian đến văn phòng luật sư một chuyến không?” Ông ta trả lời.
“Người đó sao rồi?” Cô mân mê chiếc vòng tay đá ngọc thạch xanh trên cổ tay một cách vô thức.
“Bà ấy chết rồi.”
Đôi môi cô động đậy một chút rồi khẽ mím lại, sau đó khóe môi chợt kéo dài sang hai bên, chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi như vậy, cô khiến cho người khác tưởng rằng mình đang cười, nhưng đó không phải là một nụ cười, mà đó là vì cô không thể thốt lên bất cứ lời nào, và cũng chẳng thể tìm ra được từ nào để nói.
5.
Ngoài trời mưa phùn lất phất bay, những giọt mưa thấm ướt, loang đậm trên mũi đôi bốt màu đỏ của cô, cô kéo theo vali, co ro ngồi chờ ở bến xe buýt, trên người vẫn mặc độc chiếc váy mỏng tang từ ngày hôm qua.
Những chuyến xe ở bến này dường như không nhiều. Cô có cuộc hẹn lúc 11 giờ 30 với luật sư Đới Đức Lễ.
Xe buýt ơi mau đến đi!
Xe cộ trên đường từng chiếc từng chiếc vụt lướt qua. Cô mông lung nghĩ về khuôn mặt đượm vẻ trầm buồn kia. Người ấy đã chết rồi sao? Vì sao lại chết? Là tự sát chăng? Mà dường như từ trước đến nay cuộc sống của người ấy chỉ toàn một màu muộn phiền u tối. Khỉ bà ấy chết, có phải chỉ cô độc một mình?
Hỷ Hỷ nhớ về lần đầu tiên khi nhìn thấy khuôn mặt đó, không hề giống như vậy, đó là một khuôn mặt tròn trịa, và căng tràn hy vọng.
Năm cô lên sáu tuổi, một ngày nọ bà bảo mẫu dẫn cô vào phòng làm việc của viện trưởng, khuôn mặt ánh lên niềm hy vọng kia khi vừa nhìn thấy cô, liền nở một nụ cười rạng rỡ, khiến cô cảm thấy ấm lòng. Người đàn ông đứng bên cạnh cô, thì dường như chẳng có bất kỳ biểu cảm nào.
Viện trưởng nói với cô rằng, hai người này là ông bà Tân.
Bà Tân ngồi xuống, vuốt nhẹ lên khuôn mặt cô, rồi mỉm cười nói:
“Ôi Hỷ Hỷ! Trông con thật bé nhỏ!”
Một chiếc xe buýt rẽ vào trong bến, cửa xe lạch cạch mở ra, Hỷ Hỷ kéo hành lý lên xe. Trên xe chỉ có mấy người, nhưng cô vẫn ngồi tít ở phía sau, đặt chiếc túi đang đeo trên vai và vali sang bên cạnh. Chiếc xe chầm chậm đi về phía trước, cô tháo chiếc mũ len đang đội, vẩy vẩy nước mưa xuống sàn xe, sau đó lại đội lên. Đôi mắt đen láy dõi ra màn mưa bên ngoài ô cửa một cách vô hồn.
Một buổi sớm đầu tháng 8, người ấy cùng chồng đến cô nhi viện để đón cô về nhà. Cô không nỡ rời xa anh, khóc lóc mãi không chịu lên taxi, họ phải bế thốc cô ngồi vào trong khoang xe.
Chiếc xe đi qua một quãng đường rất xa, rồi dừng lại bên ngoài một tòa nhà cũ kỹ.
Cô khóc nhiều đến nỗi thấm mệt, người ấy bế cô xuống xe. Cô gục đầu trên đôi vai mềm mại của bà, mở to đôi mắt mệt mỏi nhìn về phía căn nhà, chợt thấy trên ban công tầng hai có một khóm nho leo tím rất đẹp leo tràn quanh dãy lan can sắt.
“Đây là nhà của chúng ta!” Người ấy chỉ cho cô thấy.
Nhà mới của cô là một căn hộ chung cư nhỏ được chia làm hai phòng, khu nhà thoải dài, có một chiếc kệ nhét đầy những quyển sách. Những mảnh sứ ghép hình hoa vàng đã úa màu thời gian, và ô cửa kính màu xanh cũng đã chuyển sang màu u tối.
Chiếc giường trong căn phòng được chuẩn bị sẵn cho cô chất đầy những chiếc váy mới và đồ chơi.
Người ấy kéo tay cô nói:
“Hỷ Hỷ, sau này con sẽ ở đây nhé?”
Cô nước mắt lưng tròng, thổn thức hỏi:
“Bác Tân, bác có thể nhận nuôi luôn anh của cháu được không?”
“Nếu như con ngoan, không lâu nữa ta sẽ đón anh con về ở cùng con. Sau này hãy gọi ta là mẹ, được không nào?”
“Mẹ.”
Hình như người đó không thể sinh nở, cho nên đành phải nhận nuôi. Người chồng của bà có bồ nhí bên ngoài nên rất ít khi về nhà. Cứ về đến nhà là hai người lại lao vào cãi vã, lần nào cãi vã ông ấy cũng tức giận nói rằng:
“Ất, cô làm thế này rõ ràng là không muốn tôi về nhà nữa!”
Và quả thật, ông ta không còn quay về nữa.
Từ đó về sau, người ấy không còn quan tâm chăm sóc đến bụi nho leo kia, phó mặc nó mọc um tùm trên ban công.
Cứ mỗi lần, khỉ Hỷ Hỷ nhắc đến chuyện nhận nuôi anh trai là dường như bà lại vờ như không nghe thấy. Cuối cùng có một lần, bà ấy quát ầm lên rằng:
“Mẹ không bao giờ nhận nuôi anh con! Mẹ ghét con trai! Mẹ cũng chẳng bao giờ nhận nuôi ai nữa, con cái thì có tích sự gì cơ chứ!”
Từ đó trở đi, Hỷ Hỷ không bao giờ đề cập đến chuyện ấy nữa.
Khi lên lớp, cô thường nằm mơ giữa ban ngày.
Lúc ở nhà, mặc dù đã từng thử cố gắng biết ơn và thương cảm người phụ nữ ấy, nhưng không hiểu vì sao dường như cô luôn muốn trả thù, thường xuyên nghĩ trăm phương ngàn kế để khiến cho người ấy nổi điên lên.
Người ấy oán thán với cô rằng:
“Ngày hôm đó khi lần đầu tiên nhìn thấy con trong cô nhi viện, trông con thật khổ sở đáng thương biết mấy, như thể nếu mẹ không nhận về thì con hẳn sẽ không sống nổi. Nhưng hãy thử nhìn lại con bây giờ xem, cho dù chỉ còn một hơi thở, con cũng sẽ cứng đầu đối chọi lại với mẹ bằng được. Con đã lừa mẹ!”
Rốt cuộc là ai đã lừa ai chứ?
Người đó thường than thở với bạn bè:
“Nó là đứa vô lương tâm! Nếu sớm biết nó như vậy tôi đã không nhận nó về! Tiền của mình thì mình tiêu, chẳng cần phải nuôi con của kẻ khác!”
Năm đó cô 14 tuổi, một ngày của tháng 11, cô tan học và trở về nhà, phát hiện thấy toàn bộ đồ đạc của mình đều đã bị thu dọn và đặt gọn bên ngoài cửa. Người đó ngồi trên chiếc ghế trong phòng khách, hướng khuôn mặt ra ngoài cửa chính, dường như đã đợi cô từ rất lâu rồi.
“Ta làm xong thủ tục rồi, người của cô nhi viện sẽ đến đón con về, nhanh thôi. Ta bỏ cuộc rồi! Ta chẳng thế nào quản được con.” Người ấy lạnh lùng nói.
Nước mắt giàn giụa trên khuôn mặt, cô khẩn khoản cầu xin người ấy giữ cô lại.
Người ấy nhìn cô hồi lâu, buông từng lời không chút động lòng:
“Ta không tin con nữa! Dù cho ta có yêu con đến thế nào, thì con vẫn không hề yêu ta! Con cút đi! Cút về đi! Việc gì ta đã quyết sẽ chẳng bao giờ thay đổi được đâu.”
Rồi đột nhiên, từng hồi chuông ở đâu vọng đến, là tiếng chuông ngoài cửa. Mắt ngân ngấn nước, cô bất giác ngoảnh lại nhìn tlần tlần về phía cánh cửa đóng kín.
Người ấy vẫn ngồi trên ghế, lẳng lặng nói:
“Mau ra mở cửa đi, con tự do rồi! Đó là điều con muốn mà.”
Trải qua một chặng đường rất dài, cô lại trở về chốn cũ.
Thế nhưng, anh đã không còn ở cô nhi viện nữa.
Xe buýt cập bến lố nhố người, cô chen xuống xe, kéo hành lý đi xuyên qua con ngõ nhỏ, rẽ sang một con đường, rồi tìm đến một tòa nhà thương mại kiểu cũ, nơi đặt văn phòng của luật sư Đới Đức Lễ.
Ánh mắt cô chầm chậm ngước lên, hướng về phía những khung cửa nâu bám đầy mảng bụi, lúc này đây, cô chợt nhớ về đám nho leo tím mọc tràn ban công từng ùa vào tầm mắt trong trẻo của cô năm ấy.
Sau khi ra đi, cô chưa từng quay trở lại.
6.
Văn phòng luật sư Đới Đức Lễ nằm ở tầng 7. Hỷ Hỷ ra khỏi thang máy rồi rẽ sang bên trái, cô bước đến căn phòng cuối dãy hành lang, trên cửa treo một tấm bảng tuyển dụng.
Cô đẩy cửa bước vào, một cô gái mập mạp từ đâu hiện ra trong quầy tiếp tân, hỏi cô cần gặp ai.
Cô tự giới thiệu, rồi nói:
“Tôi có hẹn với luật sư Đới Đức Lễ.”
Cô gái mập mạp kia gọi một cuộc điện thoại nội bộ cho thư ký của luật sư. Vài giây sau, cô thư ký vận bộ đồ tây màu đen tuyền, tóc cuốn lọn xoăn bước về phía cô, trông cô ta khoảng 27, hay là 30 tuổi?
“Cô Lộ, hãy đi theo tôi.”
Cô kéo vali bước theo sau, khi đi đến một chỗ chất đầy những chồng tài liệu, cô chẳng may quệt phải làm rớt vài tờ trên đó. Cô cúi người định nhặt lên, nữ thư ký liếc nhìn một cái, rồi nói:
“Ồ, không sao đâu, kệ nó đi!”
Văn phòng với diện tích nhỏ chỉ có vài nhân viên, đống giấy tờ trước mặt mỗi người đều chất đầy một xấp cao, chẳng ai buồn ngẩng lên nhìn cô.
Hai người họ đi đến trước một căn phòng, nữ thư ký gõ gõ lên cánh cửa gỗ tối màu, mở cửa để cô vào rồi tiện tay đóng luôn.
Người đàn ông ngồi trước bàn làm việc đứng dậy chào cô. Ông ta tầm khoảng 40 tuổi, hay chỉ 35? Dáng vẻ ông ta khiến cho người khác hơi khó đoán tuổi.
“Cô Lộ, chúng tôi tìm cô rất lâu rồi.”
Ông ta giơ tay ra, bàn tay nhỏ với nước da ánh lên màu nâu đen mềm mại. Cặp mắt kính dày cộp, dáng vóc thấp nhỏ như một cậu bé già đời, và uyển chuyển tới không ngờ.
“Mời ngồi, đồ đạc của cô, đặt tạm đâu cũng được.”
Trong phòng đồ đạc có vẻ ngăn nắp sạch sẽ hơn bên ngoài, giá sách chiếm trọn một mặt tường, cao từ dưới đất lên tận trần nhà, đại đa số sách trên đó đều là sách pháp luật bìa cứng dày cộp. Trong phòng chỉ có duy nhất một chiếc bàn làm việc dài, hai chiếc ghế và một chiếc sô-pha ngắn. Khung cửa sổ hướng ra ngoài đường rèm đã buông rủ, vách cửa kính to bản vốn có thể nhìn thấu ra khu văn phòng bên ngoài cũng được che bởi tấm mành nhựa kéo.
“Chúng tôi đăng trên quảng cáo tìm cô rất lâu rồi, cô không biết sao?”
Hỷ Hỷ cảm thấy rất bối rối, lần nào cầm trên tay tờ báo cô cũng chỉ xem duy nhất mục Chòm sao hôm nay. Tin tức duy nhất mà cô chú ý gần đây chính là mẩu tin quảng cáo tìm vũ công múa cột ngày hôm qua.
Đới Đức Lễ mặc một bộ vest màu ghi tối, Hỷ Hỷ bất giác nghĩ trong đầu:
“Ông này đang mặc đồ thiếu nhi à?”
Ông ta thực sự trông rất lùn. Thế nhưng khuôn mặt ẩn sau đôi kính không gọng dày cộp kia lại ánh lên một vẻ sáng suốt tinh thông, không những vậy, ánh mắt còn toát lên vẻ tràn đầy sinh khí. Ông ta giống như một tiểu yêu tinh, thông minh và rất nhiều mưu kế.
Tiểu yêu tinh đột nhiên tiến về phía cô rồi nói:
“Cô Lộ, phiền cô cho tôi xem chứng minh thư được không? Thủ tục cần phải xác nhận một chút.”
Hỷ Hỷ lấy chứng minh thư từ trong ví ra rồi đưa cho ông ta. Đới Đức Lễ liếc nhanh thông tin phía trên, bước ra mở cửa, rồi nói với nữ thư ký đang ở phía ngoài:
“Thù Đích, cô mang đi phô-tô cho tôi một bản.”
Động tác rất nhanh chóng, ông ta quay người lại đóng cửa rồi ngồi vào chiếc ghế tựa cao đằng sau bàn làm việc.
“Chúng ta có thể bắt đầu rồi.”
Chiếc ghế kia có vẻ quá khổ so với ông ta, nhưng ông ta trông vừa tự tin vừa tự tại. Ông ta với tay lấy tập hồ sơ trên bàn rồi lật giở, bên trong đính kèm vài chục trang tài liệu.
“Bà Ất Minh Phương đã qua đời từ mười tháng trước rồi.”
Cô mím chặt môi, đợi ông ta tiếp tục nói hết.
“Theo những gì chúng tôi biết, bà Ất có một thời gian là mẹ nuôi của cô.”
“Một thời gian… đúng vậy…” Cô thầm nghĩ. “Cho đến khi bà ấy trả tôi về.”
“Sau đó bà ấy từ bỏ quyền nuôi dưỡng đối với cô, vì vậy cô lại đổi về tên họ cũ. Từ khi trở về với cô nhi viện, hai người không còn tiếp tục liên lạc nữa.
Cô gật đầu, thấy mặt mình hơi ửng đỏ, khẽ liếc trộm tập hồ sơ trên tay tiểu yêu tinh, trong lòng nghĩ: “Những thứ trên đó là quá khứ của mình! Lộ Hỷ Hỷ… Tần Hỷ Hỷ… Sau đó lại trở về Lộ Hỷ Hỷ. Cô nhi viện. Rồi căn nhà của người ấy… Sau đó lại trở về cô nhi viện.
Có lẽ trong tập hồ sơ kia còn viết cả cuộc sống sau khi cô rời khỏi cô nhi viện năm 18 tuổi, ví dụ như:
Cô là một diễn viên múa hạng ba, ở tạm bợ nay đây mai đó, sống lay lắt qua ngày nhờ vào những đồng lương còm cõi.
Cô từng yêu vài người, và cũng từng được vài người yêu lại. Gã Kim Ngưu kia vẫn còn nợ cô một khoản tiền mãi vẫn chưa trả. Tên Song Tử thì quá lăng nhăng, khiến cho cô bao phen muốn lấy nước mắt để dìm chết hắn, nhưng lại chẳng thành. Anh chàng ở cung Bạch Dương xem ra đẹp trai nhất trong số này, và cũng đối xử với cô tốt nhất, nhưng tiếc là cô lại chẳng hề rung động trước anh ta. Còn Bảo Bình, anh chàng mà cô những tưởng có thể tính đến chuyện lâu dài, thì gần như mỗi lần gặp là một lần hai đứa cãi vã.
Những điều thuộc về cô trên tập hồ sơ kia còn có gì nữa nhỉ?
Trên đó liệu có viết rằng cô rất dễ yêu thương người khác, nhưng lại rất dễ ôm nỗi thất vọng? Liệu có nhắc đến việc cô còn có một người anh trai? Cô chẳng thể nào dài lâu với những Kim Ngưu, Song Tử, Bạch Dương, và còn cả Bảo Bình và Sư Tử, chỉ có người anh trai ở cung Bọ Cạp là hợp với cô nhất.
Tập hồ sơ kia phải chăng đã ghi lại câu chuyện năm 24 tuổi của cô? Câu chuyện được ghép nên bởi những mơ ước vụn vỡ và những lời hứa vỡ vụn.
“Theo chúng tôi biết, bà Ất Minh Phương không hề có bất cứ một người thân nào, lúc sinh thời bà ấy đã lập di chúc tại văn phòng luật sư của chúng tôi, chỉ định cô là người kế thừa duy nhất toàn bộ tài sản của bà ấy.”
Nét mặt Hỷ Hỷ lộ rõ vẻ kinh ngạc.
“Bản di chúc này được lập từ khi nào vậy?” Cô khẽ khàng hỏi.
Đới Đức Lễ trả lời:
“Được lập trước khi bà Đới mất một năm.”
Cô không biết nói gì hơn.
Người đã nhẫn tâm ruồng bỏ cô trở về cô nhi viện, tại sao lại cho cô toàn bộ tài sản?
“Toàn bộ tài sản của bà Ất là tiền mặt.” Đới Đức Lễ nhìn cô một cái, rồi tiếp tục đọc. “Ước chừng khoảng chín triệu bảy trăm ngàn Đài tệ.”
Hỷ Hỷ tlần tlần nhìn Đới Đức Lễ, nét mặt đầu tiên là kinh ngạc, sau đó biến thành hoảng loạn. Cô không ngờ rằng số tiền đó lớn tới như vậy.
“Cô Hỷ, cô còn điều gì muốn hỏi tôi không?” Đới Đức Lễ tiếp tục nói.
“Tại sao? Tôi và bà ấy đã không gặp nhau cả chục năm nay rồi.” Giọng cô thoáng chút kích động, không phải là sự phấn khích khi bỗng dưng nhận được một khoản tiền từ trên trời rơi xuống, mà ngược lại, vì cô cảm thấy mình hoàn toàn chẳng có tư cách gì.
Khuôn mặt Đới Đức Lễ lộ lên vẻ vi diệu, dường như muốn nói rằng ông ta đã từng gặp rất nhiều người thừa kế được nhận những món hời lớn giống như cô vậy.
“Văn phòng luật sư chỉ phụ trách chấp hành ý nguyện của đương sự. Còn việc đương sự quyết định phân phối tài sản thừa kế như thế nào, chúng tôi sẽ không bao giờ hỏi.”
Cô ngậm chặt môi, không cất nổi nửa lời.
Người trước kia đã từng là mẹ nuôi của cô, lẽ nào vì ân hận mà đã để lại cho cô toàn bộ gia sản?
“Cô Lộ, cô còn muốn biết điều gì khác nữa không?”
“Vì sao bà ấy lại chết?” Cô khẽ hỏi.
“Vì ung thư vú.”
“Lúc bà ấy mất, có ai ở bên cạnh chăm sóc không?”
“Điều này tôi không rõ lắm. Nhưng tin bà Ất mất là do một người bạn cùng giáo hội của bà thông báo cho chúng tôi.” Đới Đức Lễ nhẹ nhàng nói.
Ông ta nhìn cô một lát, rồi nói:
“Cô Lộ, thủ tục bàn giao tài sản thừa kế có lẽ sẽ phải mất một khoảng thời gian, cô xem xem liệu có cần chúng tôi trích trước một ít tiền không, biết đâu lại phải dùng tới. Khoản tiền này đến khi nào lĩnh được hết tiền thừa kế thì trả lại cho chúng tôi cũng không muộn.”
Mặt cô đỏ ửng. Gã tiểu yêu tinh Đới Đức Lễ này tự khi nào đã phát hiện ra tình cảnh túng thiếu của cô vậy? Là lúc cô vừa bước vào, hay là từ khi cô móc chứng minh thư từ trong chiếc ví trống rỗng kia ra? Nhưng quả thực, cô hoàn toàn không hề hay biết ông ta đã soi cô một cách tỉ mỉ đến vậy.
Cô muốn lắc đầu một cách miễn cưỡng, cô muốn mỉm cười từ chối, nói rằng tạm thời cũng chưa cần đến thế, nhưng cô lại rất thèm muốn một chiếc giường ấm áp, để cô có thể nằm lên đánh một giấc ngon lành.
“Không sao cả. Thường thì chúng tôi cũng đều làm vậy.” Ông ta nói một cách rất thành tâm.
Cô gượng gạo gật gật đầu, mỉm cười tỏ ý cảm ơn.
Ông ta nhanh lẹ rời khỏi chiếc ghế, mở cửa đi ra nói nhỏ vài câu với cô thư ký. Chẳng bao lâu sau, ông ta quay về với một chiếc phong bì trên tay.
“Trong này có tám ngàn Đài tệ, cô Lộ, cô xem có đủ dùng không.”
“Đủ rồi ạ.” Mặt cô lại đỏ bừng.
Ông ta trả lại cô chứng minh thư, sau đó quay về chỗ ngồi, đặt một tập hồ sơ dày cộp trước mặt cô.
“Đây là giấy tờ để làm biên bản xác nhận bàn giao tài sản thừa kế. Cô Lộ, cô hãy điền tên vào những chỗ có dấu ba chấm, chỗ nào không hiểu có thể hỏi tôi.”
Hỷ Hỷ vừa giơ tay phải lên, Đới Đức Lễ rất nhanh chóng đưa cho cô một cái bút.
Cô cúi đầu, lặng lẽ ký tên mình trên mỗi trang, hoàn toàn chẳng có tâm trạng để xem hồ sơ đó viết những gì.
Cuối cùng cô cũng đã ký xong, và cũng ký luôn trên giấy vay tám ngàn Đài tệ của văn phòng luật sư.
Cô đặt bút xuống, ông ta tỉ mẩn kiểm tra lại một lượt tất cả chữ ký của cô. Sau khi thấy không có gì sai sót, ông ta nói:
“Được rồi!”
Cô thở phào nhẹ nhõm, đứng dậy khoác chiếc túi lên vai, kéo tay nắm vali bên cạnh rồi bước ra ngoài cửa. Đi chừng hai bước, cô dừng lại rồi quay đầu gượng gạo hỏi:
“Xin hỏi… Bà ấy được chôn ở đâu?”
Đới Đức Lễ nhìn cô gật đầu, rồi thuận tay lấy một tờ giấy note viết lên đó một hàng chữ.
Hỷ Hỷ bước tới, Đới Đức Lễ rướn qua bàn làm việc đưa cho cô mẩu giấy đó.
Cô đứng im nhìn xem trên đó viết gì.
Đúng lúc này, máy bộ đàm nội bộ bỗng vang lên giọng nói của nữ thư ký Thù Đích.
“Luật sư Đới, Lâm Khắc đến rồi.”
Đới Đức Lễ nghiêng đầu nhìn qua người Hỷ Hỷ, ánh mắt xuyên qua tấm vách kính lớn bị che khuất bởi chiếc rèm kéo.
“Cô bảo anh ấy đợi một lát.” Ông ta nói qua chiếc bộ đàm.
Hỷ Hỷ tò mò quay đầu lại, nhìn về phía vách kính theo hướng nhìn của ông ta. Lúc này, qua những kẽ hở của chiếc rèm kéo, cô trông thấy khuôn mặt của một chàng trai trẻ tuổi.
Chủ nhân của khuôn mặt kia cũng đang nhìn cô… Nhưng mà không phải, không phải anh ta đang nhìn cô, mà chỉ là vô thức nhìn vào căn phòng này, và cũng giống như cô, mắt anh ta khẽ đượm lên vẻ hiếu kỳ.
Ánh mắt của cô xuyên qua chiếc rèm cửa sổ với những lớp lá nhựa đan xen trùng điệp, nơi những kẽ ngang ghép nên một dáng người mơ hồ. Chàng trai có tên Lâm Khắc khoác một chiếc áo jacket tối màu, đang đứng với vẻ nhàm chán phía ngoài xa. Liệu cô có nhìn thấy anh ta, trong khi anh ta lại không nhìn thấy cô? Quang cảnh trước mắt sao bỗng nhiên lại gần gũi đến vậy?
Cô nhìn thấy anh ta, mà tựa như đang nhìn thấy một người khác, bao niềm hạnh phúc và sự quan tâm ấm áp xưa cũ bất chợt ùa về trong tim.
“Cô Lộ, có tin tức gì tôi sẽ thông báo sau.”
Không biết từ lúc nào Đới Đức Lễ đã bước ra phía trước bàn làm việc, chìa tay về phía cô.
Cô thất thần ngoảnh lại, bắt lấy cánh tay nhỏ bé với nước da đen óng mềm mại kia.
Ông ta mở cửa để cô đi ra. Cô kéo vali bước đi, nhưng lại không thấy chàng trai có tên Lâm Khắc kia đâu nữa.
Một nỗi thất vọng mơ hồ từ đâu ập đến, cô đi qua dãy hành lang nhỏ hẹp rồi rời đi. Khi đến cuối dãy, cô bất giác quay đầu lại nhìn như muốn tìm kiếm điều gì. Đúng lúc này, từ giữa những dãy bàn làm việc chất từng chồng hồ sơ cao ngất bỗng hiện ra một dáng người.
Là anh ta!
Tiểu yêu tinh gọi anh ta vào, anh ta chầm chậm đẩy chiếc ghế rồi đứng dậy.
Khi bước đến bên cạnh tiểu yêu tinh, anh ta trông thật giống một vị quốc vương khí khái rạng ngời.
Cánh cửa liền đóng sập lại ngay sau đó.
Đúng là anh ta mặc một chiếc jacket màu xanh đậm, trên tay cầm một túi tài liệu.
Anh ta cũng thuộc cung Bọ Cạp sao?
Từ anh ta toát lên thứ cảm giác mà đã rất lâu rồi cô không gặp. Anh trai cô, cũng tầm tuổi này.
Nhưng biết bao năm nay cô không còn gặp lại anh nữa.
7.
Bước ra khỏi văn phòng luật sư, băng qua mấy con ngõ phía ngoài, cô tìm được một khách sạn nhỏ với giá khá mềm. Cô bước vào trong, đặt một phòng rồi viết tên Lộ Hỷ Hỷ lên tờ đăng ký.
Cô lấy một tờ báo trên giá sách cạnh quầy lễ tân, nhẩm đọc mục Chòm sao hôm nay của mình.
Song Ngư à, bạn cần phải nghỉ ngơi,
Nếu không, cảm giác cô quạnh sẽ theo bạn như hình với bóng.
Lòng bạn ngập tràn nỗi hoài nghi đối với bản thân và ý nghĩa cuộc đời.
Vậy nhưng, thử hỏi rằng liệu có ai chưa từng trải qua nỗi hoài nghi như vậy?
Cô đặt tờ báo về chỗ cũ, rồi cầm lấy chìa khoá.
Trong khi đợi thang máy, cô đưa tay che miệng, uể oải ngáp một cái thật dài.
Sau khi ra khỏi thang máy, cô tìm đến phòng 103, rồi nhét chìa khoá mở cửa vào.
Căn phòng rất nhỏ, chỉ có một chiếc giường đơn đặt ở giữa phòng, trên tường chi chít những mảng giấy dán tường sọc kẻ trông thật quê mùa.
Cô quẳng hành lý và chiếc túi trên người xuống, vứt chiếc mũ len lên giường, trút hết quần áo sau đó đi thẳng một mạch vào phòng tắm rồi mở vòi hoa sen, ào ào tắm rửa sạch sẽ một lượt từ đầu xuống chân.
Lúc đi ra khỏi phòng tắm, cô quấn trên người một chiếc khăn bông, hất xõa mái tóc đen mềm óng ả.
Bây giờ trông cô chỉ khoảng 20 tuổi.
Cô cúi xuống mở hành lý rồi lấy bức Đêm đầy sao ra. Sau đó đặt một chiếc ghế rồi đứng lên trên, tháo bức tranh phong cảnh vốn được treo trên tường phòng rồi treo bức Đêm đầy sao lên thay.
Cô nhảy từ trên ghế xuống rồi thả người ngồi lên giường, sau đó lật chăn trườn lên chiếc gối êm mềm phía đầu giường, cuộn tròn lại như một chú mèo con.
Cô ngước nhìn bức Đêm đầy sao trên tường, chớp chớp đôi mắt thâm quầng mệt mỏi, chẳng bao lâu sau đã thiếp đi lúc nào không biết.
Cô ngủ một giấc dài đến tận sáng ngày hôm sau.
Sau khi tỉnh dậy, cô tắm gội rồi thay quần áo mới, đi đôi bốt ngắn và đội chiếc mũ len, lau phủi bụi bẩn bám trên đôi bốt bằng góc của ga trải giường, uống một ly nước đầy, xách theo chiếc túi rồi khoá cửa bước ra ngoài.
Rời khỏi khách sạn, cô đi vào một siêu thị rồi mua một chiếc sim được nạp sẵn tiền, rồi lắp vào điện thoại của cô, sau đó nhân tiện mua luôn một tờ báo.
Cô vừa bước ra ngoài vừa mở báo xem mục Chòm sao hôm nay, đọc xong cô vứt luôn cả tờ báo. Cô chợt nhớ ra hôm qua đã quên hỏi Đới Đức Lễ rằng phần tin quảng cáo mà ông ta đăng để tìm cô đã viết những gì.
Cô ăn một chiếc hambuger trong một cửa hàng fastfood, sau khi rời khỏi cửa hàng fastfood, cô đi qua một con ngõ rộng, ghé vào hàng hoa mua vài bông tuy-líp, rồi ôm bó hoa lên một chiếc xe buýt.
Khi đi đến khuôn viên nghĩa trang, cô tìm đến bia mộ nhỏ làm bằng đá cẩm thạch trắng của mẹ nuôi. Trên bia mộ, nụ cười của người đàn bà trong bức ảnh đen trắng trông thật hiền từ và rất đỗi thanh thản, có lẽ khi chụp bức ảnh này, bà hẳn chưa bao giờ nghĩ rằng có một ngày nó lại được dùng theo cách như vậy.
Cô lấy tay áo lau sạch những mảng bụi bám trên bức ảnh, nhẹ nhàng đặt hoa xuống rồi ngồi trước mộ, lấy cuốn Đời nhẹ khôn kham từ trong túi xách ra, rồi bắt đầu nhẩm đọc.
Năm tám tuổi, tay cô đã nắm một bàn tay khác để chìm vào trong giấc ngủ, cô tưởng tượng rằng bàn tay mà mình nắm lấy kia sẽ thuộc về người đàn ông mà cô yêu thương, thuộc về người mà cô sẵn sàng giao phó cả cuộc đời mình cho anh ấy.
Cô lặng lẽ đọc, cho tới khi mặt trời dần khuất bóng sau dãy núi xa xa.
Cô cất cuốn sách rồi từ từ đứng dậy, bước qua giữa những hàng bia mộ, rời khỏi nghĩa trang.
Cô gọi một ly vodka vị đào trong một quán bar nhỏ ngay gần khách sạn.
Gã trai trẻ ngồi phía đối diện đon đả lại gần định tán tỉnh cô.
“Xin lỗi.” Hắn ta nói.
Cô chẳng hề phản ứng. Hắn đưa mắt nhìn cô, giọng bỡn cợt:
“Không phải em đã say rồi đấy chứ? Rượu này nặng lắm đấy nhé.”
“Thế nên mỗi ngày tôi chỉ uống có một ly.”
Cô nốc cạn một hơi, rồi bỏ mặc gã trai trẻ với khuôn mặt gượng gạo, ngại ngùng lại phía sau.
Cô trở về phòng, cuộn mình trên giường, bật khóc nức nở.
Trời đã về khuya, ánh đèn neon chiếu rọi qua khe cửa, hai gã say rượu nào đó đang oang oang hát hò ngoài đường. Trong cơn nửa tỉnh nửa mơ, cô nắm lấy bàn tay còn lại của chính mình. Bàn tay đeo chiếc vòng đá ngọc thạch xanh cuối cùng buông thõng xuống cạnh giường, cho tới khi trời sáng.
Ngày hôm sau, mãi tới tận chiều cô mới rời khỏi khách sạn, đi đến tiệm sửa giày cạnh nhà ga để thay gót và đế mới cho đôi bốt màu đỏ của cô, cô đã làm việc này không biết bao nhiêu lần rồi.
Trong lúc chờ đợi, cô ngồi trên chiếc ghế cao cạnh quầy tiếp khách, mở báo đọc Chòm sao hôm nay.
Song Ngư dễ chìm đắm trong những cảm xúc bi thương,
Điều này sẽ không mang đến điều gì tốt đẹp cho bạn,
Hãy vui vẻ, phấn chấn lên!
Shopping có lẽ sẽ là liều thuốc giúp bạn giảm stress.
Cô xỏ lại vào đôi bốt, vừa ra khỏi ga tàu điện ngầm vừa gọi điện thoại:
“Bích Bích, em Hỷ Hỷ đây, sau này nếu có tuyển diễn viên múa thì gọi vào số này nhé.” Cô đọc số điện thoại, “dạo này chị bận không? Thật á? Em vẫn ổn mà, chỉ là trong nhà có chút chuyện, chẳng có gì cả!”
Cô cúp máy, rồi lượn lờ trên phố một vòng, mua được một chiếc mũ lông cừu màu trắng được đan bằng tay từ sạp hàng của một bà lão bày phía dưới cầu thang.
Trên chiếc mũ còn đan hai chiếc tai tròn dựng đứng, trông như tai gấu.
Cô tiện tay vứt bỏ chiếc mũ len cũ đang đội. Khi bước đi, hai chiếc tai tròn trên mũ cứ lắc qua lắc lại trên đầu cô.
Cô đi về phía đông, xuyên qua một tòa trung tâm thương mại tấp nập, rồi lại quay lại, tấp vào một cửa hàng thời trang ở trong đó.
Cô chọn một vài bộ đồ đơn giản, rồi vào phòng thay đồ.
Cô ngắm nhìn thân hình trong chiếc gương, chiếc mũ cổ quái kia khiến cô chẳng thể nhịn cười, cô cũng phát hiện ra mình có một đôi mắt rất đen, rất sáng, tựa như hai viên thuỷ tinh đen được nạm trên khuôn mặt căng tròn mịn màng.
Cô trút bỏ quần áo, khuôn lưng của cô vẽ nên một đường cong tuyệt đẹp, giống như hai chữ C tựa lưng vào nhau, lấy mắt rốn làm điểm trung tâm, ở giữa cách một đoạn vừa vặn hoàn hảo.
Lúc bước ra từ phòng thay đồ, cô đã mặc trên người bộ quần áo mới. Sau khi trả tiền, cô gấp gọn bộ đồ cũ rồi nhét vào trong túi.
Cô tiếp tục đi về phía tây, mua một chiếc dao cạo râu và sữa tắm hương đào trong một tiệm mỹ phẩm. Phân vân một hồi lâu, cuối cùng cô cũng quyết định mua thêm một thanh sô-cô-la.
10 giờ tối, cô quay lại quán bar ngày hôm trước.
Cô gọi một ly kem vani và một ly vodka vị đào, tưới đẫm vodka lên ly kem, rồi dùng chiếc thìa inox bé xíu nhấm nháp chút một. Cô vừa ăn vừa đọc cuốn Đời nhẹ khôn kham.
10 rưỡi đêm cô trở về căn phòng khách sạn, tắm ướt hương đào lên người, rồi dùng dao cạo râu cạo lông chân trong bồn tắm.
Tắm xong, cô trèo lên giường cuộn tròn trên chiếc gối. Ánh trăng sáng vằng vặc trên cao, cô nằm mơ thấy anh.
“Hỷ Hỷ, chạy mau! Chạy mau!” Anh hét lên.
Cô và anh trộm đồ trong một cửa hàng bách hóa. Họ lấy được rất nhiều thứ, có quần áo, đồ ăn, và còn cả giày nữa. Lúc hai người chuẩn bị lẻn đi, thì bỗng hai ông bảo vệ từ đâu đuổi theo.
Cô và anh chạy trốn thục mạng. Cô chạy mãi chạy mãi, được một quãng đường rất dài rồi mới phát hiện không thấy anh đâu nữa. Trên tay cô chỉ còn lại một đôi giày rất xấu.
Cô choàng tỉnh giấc, tim vẫn đập thình thịch, nhận ra mình vẫn đang nằm trên chiếc giường xa lạ của khách sạn, vật vờ như một cái bóng, chỉ có bức Đêm đầy sao trên tường và cuốn sách vẫn nằm lặng lẽ bên cô.
Sớm hôm sau cô tỉnh dậy, cất mấy bộ quần áo cũ vào trong túi, khóa cửa, rồi đi thang máy xuống sảnh, trả tiền thuê phòng ba ngày ờ quầy lễ tân.
Cô rời khỏi khách sạn, ngang qua tòa nhà thương mại của văn phòng luật sư Đới Đức Lễ, sang bến xe buýt nằm đối diện bên đường đáp chuyến xe đi về hướng tây.
Cô ngồi đọc sách trên xe, bà cụ già phía đối diện cứ chăm chú nhìn chiếc mũ kỳ lạ của cô.
Hỷ Hỷ cố tình tỏ ra thật lạnh lùng, nghiêm túc.
Xe cập bến, cô bước xuống rồi đi vào một con đường chếch ngang qua đại lộ, mang gói quần áo cũ vào tặng cho hội tình nguyện viên. Nữ nhân viên trong văn phòng xởi lởi bắt chuyện với cô, không ngừng khen chiếc mũ cô đang đội trông thật đáng yêu.
Cô ngập ngừng bỏ chiếc mũ xuống, rồi tặng luôn cho hội tình nguyện viên.
Sau đó, cô đến quán bar uống một ly vodka vị đào, đọc mục Chòm sao hôm nay trên báo, rồi về phòng khách sạn sớm, nằm trên giường đọc sách.
Mấy ngày sau đó, cô bị cảm cúm, đại đa số thời gian đều nằm lỳ trong phòng đọc sách, chỉ thi thoảng ra ngoài để mua báo hoặc đến quán bar.
Vào một buổi sáng khi số tiền trong tay cô đã gần cạn kiệt, cô đang nhíu mày híp mắt đánh răng trong phòng tắm thì chuông điện thoại bỗng reo lên, cô vội vã chạy ra cầm điện thoại, là cô nàng thư ký Thù Đích của Đới Đức Lễ gọi tới, mời cô hôm sau đến văn phòng luật sư. Cô nhả bọt kem đánh răng tiếp lời.
8.
Lúc Hỷ Hỷ gặp Đới Đức Lễ vào hôm sau, ông ta đang ngồi lọt thỏm trên chiếc ghế tựa lưng cao trong văn phòng, chiếc ghế to bản khiến ông ta trông thật nhỏ bé. Đới Đức Lễ vận trên người một bộ vest màu ghi tối, đeo chiếc cà-vạt hoa văn nhỏ, nhìn qua trông vẫn chẳng khác gì bộ đồ trẻ em size lớn nhất.
Quả thật, ông ta khiến cho người khác rất khó đoán tuổi.
Cô trộm nghĩ, liệu ông ta có phải là một đứa trẻ thần đồng bị mắc chứng lão hóa không nhỉ? Và biết đâu ông ta cũng giống như cô, là một cô nhi.
Đới Đức Lễ đặt một tập tài liệu trước mặt cô, rồi cất lời:
“Cô Lộ, thủ tục đã làm xong rồi.”
Cô mải nhìn dãy số kia, đó là một khoản tiền cực lớn. Thế nhưng, tại sao cô lại không có cảm giác gì đặc biệt? Tựa như khoản tiền này không phải sự thực.
Cô ngoan ngoãn ký tên trên tập tài liệu, như một học sinh đang trả bài.
“Cô Lộ, nếu sau này có nhu cầu gì khác, mong cô liên lạc với tôi bất cứ lúc nào.”
Hai bàn tay Đới Đức Lễ đan vào nhau đặt trên bàn, khuôn mặt nở một nụ cười trông vừa thành khẩn vừa hiếu khách. Khoảnh khắc này, trông ông ta giống như một tiểu yêu tinh lương thiện với rất nhiều phép thuật, có thể giúp con người thực hiện được những nguyện vọng thẳm sâu trong trái tim mình.
Cô mở lời hỏi:
“Luật sư Đới… hôm trước khi tôi đến đây… có một người đang đứng bên ngoài chờ ông… anh ta mặc chiếc áo jacket màu xanh… cao chừng này…” CCô dùng tay mô tả, \’\’tôi thấy… anh ta trông rất quen… không biết có phải ngày trước tôi đã từng gặp anh ta hay không… tên anh ta là gì vậy?”
Tiểu yêu tinh nhíu nhíu chân mày, nhất thời không nhớ ra người mà cô đang nhắc đến là ai.
“Tôi nghe hình như anh ta họ Lâm… còn tên chỉ có một chữ…”
Đới Đức Lễ cuối cùng cũng nhớ ra.
“Ý cô là Lâm Khắc?”
“Ồ… đúng! Anh ta là nhân viên ở đây phải không?”
“Không, anh ta là thám tử, chúng tôi thuê từ một công ty thám tử tư nhân.”
Hóa ra người đó là thám tử tư sao?
Cô bất chợt nghĩ về những nhân vật thám tử tư với trí thông minh tuyệt đỉnh, bộ dạng toát lên vẻ phong trần lang bạt, dường như họ đều có một điểm chung, đó là một quá khứ đầy thương cảm không ai biết đến, ẩn sâu dưới vẻ ngoài lạnh lùng quyết đoán.
Lẽ nào anh ta cũng thuộc cung Bọ Cạp, giống anh trai cô?
Bọ Cạp đều là những thám tử đại tài.
“Mặc dù bây giờ Google đã cướp đi rất nhiều công việc liên quan đến điều tra bối cảnh và thu thập tình báo,” Đới Đức Lễ cười nói, “thế nhưng, có một số chuyện xét cho cùng Google vẫn không thể làm được, ví dụ như, khi cô cần theo dõi hoặc giám sát ai đó, Google sẽ không thể thay thế cho thám tử tư.
“Và anh ta sẽ thay ông làm những công việc như vậy phải không?”
“Đó chỉ là một phần. Còn phải tùy theo trường hợp nữa, vì văn phòng luật sư cũng chỉ làm việc thay cho đương sự. Và đương nhiên, có những yêu cầu của đương sự chúng tôi cũng không thể làm được toàn bộ, ví dụ như, vợ của một ông sếp công an nghi ngờ chồng mình có bồ nhí, chúng tôi cũng không thể bảo Lâm Khắc theo dõi vị sếp công an kia được, trừ phi chúng tôi đã chán sống…”
Nói xong, ông ta bật cười đắc ý, có vẻ rất hào hứng vì khiếu hài hước của mình.
“Ông có thể bảo anh ta theo dõi tôi không?” Cô ngắt lời.
Căn phòng chìm trong im lặng, nét kinh ngạc hiện rõ trên mặt Đới Đức Lễ, tựa như bị ai đó nện một gậy vào giữa đầu vậy, trông thật tội nghiệp.
Vài giây sau, ông ta lấy lại vẻ điềm tĩnh, nhẹ nhàng hỏi:
“Cô Lộ, cô vừa nói gì nhỉ?”
“Tôi muốn nhờ Lâm Khắc theo dõi tôi.” Cô nói.
Cô biết ý nghĩ này thật kỳ quặc biết bao, nhưng cô vẫn chẳng thể kìm được, giống như một người ôm niềm hy vọng chất chứa, thổ lộ với yêu tinh nguyện vọng của mình.
Nụ cười trên môi Đới Đức Lễ tắt lịm.
“Cô Lộ, tôi có thể biết vì sao không?”
Theo dõi cô thì có sao chứ? Cô cũng đâu phải là sếp công an. Nhưng cô vẫn bịa ra một lý do.
“Bây giờ tôi có tiền rồi… có thể làm một việc mà trước nay luôn ấp ủ… đó là viết một cuốn sách… một cuốn tiểu thuyết trinh thám…. có liên quan đến việc theo dõi… vì vậy… tôi muốn tìm chút cảm hứng….”
Mặt Đới Đức Lễ không biểu lộ chút cảm xúc nào.
Cô không đoán được ông ta đang nghĩ gì, nhưng dường như ông ta cũng chẳng đoán được cô đang nghĩ gì.
“Cứ coi tôi là đương sự của ông là được, bảo anh ta rằng tôi là một thiếu nữ bỏ nhà ra đi từ vài năm trước, bố mẹ tôi muốn biết được hành tung của tôi, muốn biết liệu tôi sống có tốt hay không… Ông xem vậy có được không? Tôi sẽ trả tiền mà.”
Cô cảm thấy Đới Đức Lễ đang do dự.
Cô thầm cầu nguyện trong lòng: Xin ông đấy, đồng ý đi! Đồng ý đi!
Cô kiên trì nhìn về phía ông ta.
Cuối cùng Đới Đức Lễ cũng cất lời:
“Cô Lộ, cô quyết định muốn làm như vậy?”
Cô gật gật đầu, rồi hỏi:
“Luật sư Đới, ông sẽ không nói cho Lâm Khắc và bên công ty thám tử rằng, người nhờ ông chính là tôi chứ?”
Ông ta trả lời một cách nghiêm túc:
“Tôi không có bất cứ lý do gì để làm vậy. Luật sư có trách nhiệm bảo mật cho đương sự.”
“Vậy bao giờ Lâm Khắc có thể chính thức theo dõi tôi?”
“Tôi cần sắp xếp một chút. Cô Lộ, việc này ngoài khoản phí phải trả cho bên công ty thám tử tư, văn phòng luật sư cũng sẽ thu một khoản chi phí, và khoản thu này không bao gồm những chi phí phát sinh khác trong quá trình theo dõi cô.”
“Không thành vấn đề!”
Giờ đây cô đã có rất nhiều tiền! Và rốt cuộc khoản tiền này cũng có chút hữu dụng đối với cô.
“Cô Lộ, cô muốn chỉ định Lâm Khắc theo dõi cô phải không? Bên kia còn có nhiều thám tử khác nữa….”
“Không! Tôi muốn anh ta.”
“Cô có cần một bản báo cáo theo dõi không?”
Cô vẫn chưa nghĩ đến điều này, may mà Đới Đức Lễ nhắc đến.
“Tôi cần một bản báo cáo chi tiết.” Cô trả lời.
“Cô muốn Lâm Khắc theo dõi cô đến khi nào?”
“Tôi vẫn chưa quyết định.”
Đới Đức Lễ nhìn cô một cái, rồi nói:
“Cô Lộ, tôi tính như vậy có được không, bây giờ cô cứ về trước, sau khi sắp xếp xong tôi sẽ liên lạc với cô.”
Cô đứng dậy, một cảm giác hoan hỷ lan tỏa trong lòng.
Đột nhiên, Đới Đức Lễ ngẩng lên hỏi cô:
“Cô Lộ, cô có mang theo ảnh không?”
Cô lấy từ trong chiếc ví nilon in hình hoa anh túc ra một bức ảnh bán thân. Bức ảnh chụp năm cô 13 tuổi, lọn tóc dài được buộc gọn sau đầu, trên người mặc bộ đồ múa màu đen bó sát người.
Lúc chụp bức ảnh này, cô vừa mới múa xong, đang định rời khỏi căn phòng tập được lắp đầy những tấm gương lớn, không biết ai bỗng nhiên gọi tên cô từ phía sau, cô quay đầu ngoảnh lại, những sợi tóc tơ bay vương quanh khuôn mặt, đôi mắt đen láy mênh mang nhìn về phía trước.
Cô luôn yêu thích bức ảnh này, cô gái trong bức ảnh kia có một thần thái gì đó mà giờ đây cô đã đánh mất. Khi đó cô đang nhìn thứ gì? Rốt cuộc là ai đã gọi tên cô? Cô không còn nhớ nữa.
Nếu nói cô là một thiếu nữ đã bỏ nhà ra đi từ vài năm trước, cha mẹ giàu có của cô muốn biết hành tung của cô, vậy thì, bức ảnh này là phù hợp nhất rồi.
Cô đưa bức ảnh cho tiểu yêu tinh Đới Đức Lễ.
Ông ta nhận lấy bức ảnh, rời khỏi chiếc ghế tựa cao, bước ra trước bàn làm việc để tiễn cô.
Khi cả hai đi ra đến cửa, ông ta hỏi cô:
“Cô Lộ, hiện giờ cô đang ở đâu?”
Hỷ Hỷ đáp:
“Tôi ở ngay khách sạn Tân Nguyệt gần đây, phòng 103.”
Mãi đến ba hôm sau Đới Đức Lễ mới gọi đến. Dường như ông ta cố ý kéo dài ba ngày, để xác minh rằng vị khách này không có bất cứ biểu hiện gì muốn thay đổi ý định điên khùng của mình.
Ông ta thông báo rằng:
“Cô Lộ, đã sắp xếp ổn cả rồi, bắt đầu từ ngày mai, Lâm Khắc sẽ theo dõi cô. Bản báo cáo và giấy tờ hóa đơn nên làm thế nào để gửi cho cô nhỉ?”
“Tạm thời ông cứ gửi đến khách sạn Tân Nguyệt nhé.”
Hỷ Hỷ cúp máy. Lúc này đây, cô đang ngồi trong quán bar nhỏ ngay cạnh khách sạn, và uống cạn một ly vodka vị đào.
Cô trả tiền rồi bỏ cuốn Đời nhẹ khôn kham đã xem được một nửa vào trong túi đeo.
Sau đó cô đứng dậy, sải từng bước dài rời khỏi quán mà không buồn ngoảnh lại.
Bắt đầu từ ngày hôm nay, cô đã không còn đường để quay lại nữa rồi.